LÒNG SÙNG
KÍNH KINH MÂN CÔI
(Hiệu đính
tài liệu Kinh Mân Côi) [1]
Trần Mỹ
Duyệt
“Nếu
Phanxicô muốn lên thiên đàng, thì phải siêng năng lần
hạt”. Ðọc và suy ngắm Kinh Mân Côi cách sốt sắng là cầu
nguyện. Và hôm nay, Phanxicô đã về trời và đã được tuyên
phong hiển thánh vì đã thực hành theo lời khuyên của Đức
Mẹ.
Ngày 13
tháng 7 năm 1917, tại Fatima, Ðức Mẹ đã hiện ra lần thứ
ba với Lucia, Giaxinta, và Phanxicô, cho ba em nhìn thấy
hỏa ngục và những hình phạt mà các linh hồn phải chịu
trong đó. Lucia đã hỏi Ðức Mẹ về số phận của mình, của
hai em Phanxicô và Giaxinta. Ðức Mẹ đã cho biết đối với
Phanxicô, nếu muốn lên thiên đàng thì em phải siêng năng
lần hạt.
Không thấy
Ðức Mẹ nói lý do tại sao lại đòi Phanxicô phải lần hạt
nhiều. Nhưng có thể hiểu một cách đơn sơ rằng, đối với
Phanxicô lần hạt nhiều có nghĩa là cầu nguyện nhiều, bởi
vì việc lần hạt Mân Côi không vượt quá khả năng một em
nhỏ như Phanxicô. Đối với Phanxicô lần hạt chính là một
hình thức cầu nguyện.
Với mỗi
Kitô hữu hôm nay, nếu có hỏi Ðức Mẹ một câu tương tự về
số phận đời đời của mình như Ba Trẻ Fatima xưa: “Còn số
phận con thì sao?”, chắc chắn cũng sẽ được nghe Ðức Mẹ
trả lời: “Nếu muốn lên Thiên Ðàng, con phải năng lần
hạt”.
Sơ lược
lịch sử kinh Mân Côi [2]
Kinh Mân
Côi đã bắt đầu từ thời Trung Cổ. Lễ Mân Côi được Thánh
Giáo Hoàng Piô V (1504-1572) thiết lập vào năm 1571 để
kỷ niệm chiến thắng vịnh Lepanto, ngày 7 tháng 10 năm
1571. Chiến thắng giữa Thập Tự Quân và đạo quân Hồi Giáo
này được cho là do “cánh tay” của Kinh Mân Côi nhiều hơn
là do sức mạnh của khí giới và sự dũng cảm của những
chiến sỹ Đạo Binh Thánh Giá lúc bấy giờ.
Từ đầu Kinh Mân Côi được coi như một hình thức cầu
nguyện đã được Đức Mẹ trao cho Thánh Đa Minh
(1170-1221), như một khí cụ chống lại lạc giáo Albigensê
và được Thánh Giáo Hoàng Piô V - vị Giáo Hoàng của Dòng
Đa Minh - phổ biến và truyền bá. Chính Ngài đã chính
thức chấp thuận Kinh Mân Côi vào năm 1569 như hình thức
hiện nay qua Tông Sắc Consueverunt Romani. Kinh
Mân Côi đã được hoàn thành bằng cách thêm vào nửa sau
của Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh ở phần kết của mỗi
mầu nhiệm.
Thời Trung cổ, Kinh Mân Côi xuất hiện trong các tu viện
thay thế cho Kinh Thần Vụ dành cho các cư sĩ tại gia và
những cư sĩ mộ đạo không biết đọc. Thay vì đọc 150 thánh
vịnh, họ sẽ cầu nguyện bằng cách đọc 150 “Kinh Lạy Cha”
đếm trên một vòng hạt được gọi là vương miện hoặc “hào
quang”. Thế kỷ thứ mười hai, với sự gia tăng lòng sùng
kính Đức Mẹ, 150 Kinh Lạy Cha được thay thế bằng 150
Kinh Kính Mừng.
Chuỗi Mân Côi với 150 Kinh Kính Mừng ban đầu được thầy
Henry Kalkar (1328-1408) dòng Đaminh chia thành mười lăm
bài suy niệm về những biến cố trong cuộc đời của Chúa
Giêsu và Mẹ Maria, theo sau mỗi suy niệm là 10 Kinh Kính
Mừng. Sau này thầy Alanus de Rupe (1428-1478) cũng là tu
sỹ Dòng Đaminh đã san định lại các bài suy niệm phù hợp
với các giai đoạn trong lịch sử cứu độ thành các mầu
nhiệm Vui, Thương và Mừng. Theo thầy Alanus, nguồn gốc
của Kinh Mân Côi, lúc đó được gọi là “Thánh thi Đức
Trinh Nữ Maria” là do Đức Mẹ đã ban cho cho Thánh Đa
Minh. Từ đó, sự thúc đẩy hoạt động tông đồ và phổ biến
Kinh Mân Côi được cho là sứ mệnh của Dòng Đa Minh.
Ngày 16
tháng 10 năm 2002, bắt đầu năm thứ 25 Giáo Triều của
Ngài, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) đã
ban hành Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria (Thư
Rosarium Virginis Mariae) đã thêm vào mầu nhiệm Ánh Sáng
tỏa chiếu qua Chúa Giêsu.
20 Mầu
Nhiệm Mân Côi
Khi lần
hạt, ngoài việc đọc và suy ngắm ý nghĩa của từng lời
kinh, ta còn có dịp đi sâu vào những mầu nhiệm tình
thương và sự thánh thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng
như vinh quang của Ðức Trinh Nữ Maria.
Trước hết,
qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, ta hân hoan về Ơn Cứu Chuộc đã
được ban cho nhân loại qua Ðức Giêsu Kitô. Suy niệm về
cuộc hành trình bác ái của Ðức Maria, khi vượt đồi núi
Giuđêa đến viếng thăm chị họ Isave. Cảm nghiệm tình
thương bao la của Thiên Chúa Nhập Thể qua hình hài con
trẻ nằm rét run trong hang bò lừa tại đồng quê Belem.
Học hỏi đức khiêm nhường và tuân phục của Ðức Maria và
Thánh Giuse khi lên Giêrusalem dâng Ðức Kitô cho Thiên
Chúa. Sau đó, vui mừng với Hai Ðấng khi tìm lại được
Giêsu sau ba ngày lạc mất.
Nhưng khi
con người bị đau khổ, bị thử thách mới biết tình Chúa
thương yêu như thế nào. Mới hiểu tại sao Ðức Kitô lại
đau khổ, đổ mồ hôi hòa máu trong vườn Cây Dầu. Tại sao
Ngài để người ta đánh đòn, xỉ vả Ngài. Tại sao Ngài cam
tâm chịu nhục hình trước mặt bọn người tội lỗi. Tại sao
Ngài vác thập giá. Và nhất là tại sao Ngài lại chịu chết
treo trên thập giá.
Suy ngắm
những chặng đường đau khổ của Ðức Kitô từ vườn Cây Dầu
đến núi Sọ, ta sẽ hiểu thế nào là tình thương yêu của
Thiên Chúa. Thế nào là ác quả của tội lỗi. Thế nào là sự
cao quí của linh hồn.
Sau khi
cùng chia vui, xẻ sầu với Ðức Kitô qua các ngả đường
trần gian, trong ơn gọi và cuộc sống của mình, nhờ suy
ngắm, mỗi Kitô hữu sẽ tìm được nguồn vui thiêng liêng
khi nghĩ về cuộc phục sinh vinh quang của Ngài. Nhớ về
Thiên Ðàng khi nhìn ngắm Ðức Kitô về trời, vì Ngài về
trời là để dọn chỗ cho mỗi người chúng ta: “Thầy đi để
dọn chỗ cho các con” (Jn 14:2). Ngày Mẹ Maria được Thiên
Chúa rước về trời và phong làm Nữ Vương trời đất.
Chúa Giêsu
là “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12). Ánh Sáng đã xuất hiện
như ngọn đuốc dẫn đàng cho nhân loại tìm về cõi phúc
trường sinh giữa đêm trường trần gian mù mịt, khi Ngài
xuất hiện lãnh nhận việc thanh tẩy từ tay Gioan Tẩy Giả
trên sông Giođan. Khi Ngài tham dự tiệc cưới ở Canna với
các môn đệ. Khi Ngài kêu gọi mọi người “xám hối” và “tin
vào Tin Mừng”. Khi Ngài hiển lộ sáng láng trên núi
Taborê. Và khi Ngài thiết lập bí tích Thánh Thể.
Tóm lại, 20
Mầu Nhiệm Mân Côi chính là 20 quãng đường của mọi người
chúng ta phải đi, phải chấp nhận vì tình mến như Chúa
Giêsu, như Mẹ Maria đã đi và đã chấp nhận. Một giờ cầu
nguyện đơn sơ nhưng với ý nghĩa cao siêu như thế, không
phải là một giờ suy nguyện đẹp lòng Thiên Chúa hay sao?
Không phải là một giờ để mình tâm sự và nghe Chúa tâm sự
với mình qua những mầu nhiệm đó sao? Vì khi suy ngắm
những mầu nhiệm đó, ta sẽ được nghe Thiên Chúa nói với
ta về cuộc đời của Ðức Kitô, của Ðức Maria và những gì
Ngài muốn ta thực hiện trong đời sống theo gương Hai
Ðấng.
Kinh Mân
Côi với các vị giáo hoàng [3]
Từ lâu,
Kinh Mân Côi vẫn được cho là kinh đọc của các ông già,
bà cả, con nít, hoặc của những giáo hữu không biết suy
niệm hoặc cầu nguyện bằng Thánh Kinh. Nhưng đó là những
suy nghĩ nông cạn, sai lầm của những đầu óc kiêu ngạo.
Để hiểu được giá trị và sự cao trọng của Kinh Mân Côi,
sau đây là những gì mà 11 vị Giáo Hoàng đã nói về kinh
này trả qua lịch sử của Giáo Hội:
1-Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII (1878- 1903) qua các Thông điệp của
Ngài: [4]
“Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện tuyệt vời nhất. Nó
là phương thuốc cho mọi tệ nạn của chúng ta, là gốc rễ
của mọi phước lành. Không có cách cầu nguyện nào tuyệt
vời hơn.”
“Cha tha thiết khuyến khích tất cả các Kitô hữu hiến
thân cho việc đọc lại Kinh Mân Côi cách sùng kính đạo
hạnh một cách công khai, hoặc riêng tư trong nhà riêng
và gia đình của họ, và điều đó không ngừng.”
2-Thánh Giáo Hoàng Piô X (1903-1914):
“Kinh Mân Côi là kinh đẹp nhất và phong phú nhất trong
tất cả những lời cầu nguyện chuyển đến Đấng Trung Gian
của mọi ân sủng; Đó là lời cầu nguyện hầu như chạm đến
toàn bộ trái tim của Mẹ Thiên Chúa. Hãy đọc kinh đó mỗi
ngày!”
“Giữa tất cả các lời cầu nguyện, Kinh Mân Côi là kinh
đẹp nhất, giàu ơn sủng nhất, và là kinh làm đẹp lòng Đức
Trinh Nữ Nhất.”
3-Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV (1914-1922):
“Lời cầu nguyện của Kinh Mân Côi là hoàn hảo, vì những
lời ngợi khen mà nó mang lại, những bài học mà nó dạy,
những ân sủng mà nó có được và những chiến thắng mà nó
đạt được.”
“Kinh Mân
Côi là lời cầu nguyện “thích hợp nhất để nuôi dưỡng lòng
đạo đức rộng rãi và mọi nhân đức.”
“Các Giáo Hoàng La Mã đã không bỏ qua một dịp nào để
tuyên dương Kinh Mân Côi và đã làm phong phú nó bằng các
Tông huấn.”
4-Đức Giáo Hoàng Piô XI (1922-1939):
“Một vũ khí mạnh mẽ để xua đuổi ma quỷ.”
“… Cha khuyên họ, theo gương của chính chúng tôi, đừng
để một ngày nào đó trôi qua mà không lần chuỗi Mân Côi,
cho dù họ có thể phải chịu gánh chăm lo và lao động nặng
nề như thế nào.”
“Các bậc làm cha, làm mẹ trong các gia đình đặc biệt
phải nêu gương cho con cái của họ, nhất là vào lúc hoàng
hôn, tụ tập sau ngày làm việc, giữa các bức tường trong
nhà và quì gối đọc kinh Mân Côi, cúi mình xuống trước
ảnh Đức Trinh Nữ”.
5-Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939-1958):
Kinh Mân
Côi là “một bản tóm tắt của toàn bộ Tin Mừng” (AAS 38
[1946] trang 419). Kinh Mân Côi rút ra các mầu nhiệm từ
Tân Ước và tập trung vào các sự kiện trọng đại của Sự
Nhập Thể và Cứu Chuộc
“Chúng tôi
không ngần ngại khẳng định công khai rằng chúng tôi đặt
niềm tin rất lớn vào Kinh Mân Côi để chữa lành những tệ
nạn của thời đại chúng ta.”
“Hỡi các anh em đáng kính, những nỗ lực của anh chị em
nên được hướng dẫn để hiểu được phẩm giá, quyền năng và
sự tuyệt hảo của Kinh Mân Côi.”
“Không có phương tiện nào chắc chắn hơn để xin phúc lành
của Thiên Chúa trên gia đình ... hơn việc đọc Kinh Mân
Côi hàng ngày.”
“Ngôi nhà của gia đình Kitô hữu, giống như ở Nazareth,
sẽ trở thành một nơi thánh thiện ở trần gian, và có thể
nói, một ngôi đền thờ linh thánh, nơi mà Kinh Mân Côi sẽ
không chỉ là lời cầu nguyện đặc biệt dâng lên trời cao
mỗi ngày trong một hương thơm dịu ngọt, nhưng cũng sẽ
hình thành một trường học hữu hiệu nhất về kỷ cương và
nhân đức Kitô giáo”. (Thông điệp Ingruentium Malorum về
việc đọc kinh Mân Côi [15/09/51])
6-Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963):
“Kinh Mân Côi là vinh quang của Giáo hội Rôma .... Có vị
trí của riêng mình ... sau Thánh lễ và các Bí tích.”
“Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện tuyệt vời và phổ quát
cho nhu cầu của Giáo hội, các quốc gia và toàn thế
giới.”
7-Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978) :
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã dành phần cuối cùng trong
Tông Huấn Marialis Cultus (Lòng sùng kính Đức Mẹ) của
ngài nói về Kinh Mân Côi. Trong đó Ngài viết:
“Kinh Mân
Côi vẫn giữ được giá trị không thay đổi và sự tươi mới
nguyên vẹn.”
“Nếu tệ nạn
gia tăng, lòng sùng kính của Dân Chúa cũng phải tăng
lên. ... Hãy sốt sắng cầu nguyện với Mẹ Maria, người mẹ
nhân từ nhất của chúng ta bằng cách lần chuỗi Mân Côi
trong suốt tháng Mười, như chúng tôi đã chỉ ra. Lời cầu
nguyện này rất phù hợp với lòng sùng kính của Dân Chúa,
đẹp lòng Mẹ Thiên Chúa nhất và hữu hiệu nhất trong việc
được hưởng phúc thiên đàng”.
“Không còn nghi ngờ gì nữa, sau khi cử hành các Giờ Kinh
Phụng Vụ, đỉnh cao mà lời cầu nguyện gia đình có thể đạt
tới, thì Kinh Mân Côi nên được coi là một trong những
lời cầu nguyện chung tốt nhất và hữu hiệu nhất mà gia
đình Kitô hữu được mời đọc”. (Christi Matri,Thông
điệp về lời cầu nguyện cho hòa bình trong tháng 10
(15/09/66) và Tông huấn Marialis Cultus (02/02/74).
8-Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô I
(26/8-28/9/1978):
“Kinh Mân Côi là một lời cầu nguyện nghèo nàn ư? Vậy thì
một 'lời cầu nguyện phong phú' sẽ như thế nào? Kinh Mân
Côi là một cuộc rước các Kinh lạy Cha, lời cầu nguyện do
Chúa Giêsu dạy; cuộc rước các Kinh Kính Mừng, lời chào
của Thiên Chúa đối với Đức Trinh nữ qua lời chào của
Thiên thần; cuộc rước các Kinh Sáng Danh, sự ngợi khen
Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh”.
“Sự khủng hoảng của Kinh Mân Côi không đến trước. Điều
đầu tiên xảy ra là sự khủng hoảng trong việc cầu nguyện
nói chung ngày nay. Mọi người đều bị xâm chiếm bởi lợi
ích vật chất; họ ít nghĩ về linh hồn ... Đối với đời
sống nội tâm, và về ... tình cảm dịu dàng với Thiên
Chúa, ... quá mệt mỏi khi tìm được vài phút giây. Thật
đáng tiếc!"
9-Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005):
“Kinh Mân
Côi là lời cầu nguyện yêu thích, trong đó chúng ta cùng
với Đức Maria suy niệm về những mầu nhiệm mà Mẹ, với tư
cách là một người mẹ, đã suy niệm trong lòng, “Còn Maria
thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong
lòng” (Luca. 2:19) (Osservatore Romano, 44; 30
tháng 10 năm 1979).
“Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện yêu thích của cha.”
“Hãy đọc kinh Mân Côi mỗi ngày. Tôi tha thiết kêu gọi
các Mục tử hãy lần hạt Mân Côi và dạy những người trong
cộng đồng Kitô giáo của họ cách cầu nguyện này”.
“Gia đình
đọc Kinh Mân Côi mỗi tối thật đẹp biết bao”.
10-Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI (2005-2013):
Kinh Mân Côi là “lời cầu nguyện của người Kitô hữu tiến
bước trong cuộc hành hương đức tin, theo sau Chúa Giêsu,
trước Mẹ Maria”.
“Chuỗi Mân Côi là một phương tiện được Đức Trinh Nữ ban
cho để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và suy gẫm về cuộc đời
của Người, để luôn yêu mến và theo Người một cách trung
thành hơn”.
“Các bạn trẻ thân mến, cha mời gọi các bạn đánh giá cao
lời cầu nguyện truyền thống về Đức Mẹ, lời kinh này giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về những khoảnh khắc trọng tâm của
sự cứu rỗi mà Chúa Kitô đã thực hiện.”
“… Những người bệnh thân mến, cha khuyên các con nên tin
tưởng vào Đức Trinh Nữ, qua việc thực thi lòng đạo đức
này, giao phó mọi nhu cầu của bạn cho Mẹ”.
Đức Bênêđíctô XVI mời gọi các cặp vợ chồng mới cưới “hãy
làm cho việc đọc kinh Mân Côi trong gia đình trở thành
một khoảnh khắc tăng trưởng thiêng liêng dưới cái nhìn
mẫu tử của Đức Trinh Nữ Maria”.
11-Đức Giáo Hoàng Phanxicô (13 March 2013- ?):
“Nhưng để
trở thành tông đồ của Kinh Mân Côi, người ta phải tự
mình cảm nghiệm vẻ đẹp và chiều sâu của lời cầu nguyện
này, là lời cầu nguyện đơn giản và dễ tiếp cận đối với
tất cả mọi người. Trên hết, chúng ta cần được bàn tay
của Đức Trinh Nữ Maria dẫn dắt để chiêm ngưỡng dung nhan
của Chúa Kitô: một khuôn mặt vui tươi, sáng láng, sầu
muộn và vinh quang. Người nào, giống như Đức Maria và
cùng với Mẹ, cố gắng gìn giữ và suy gẫm về các mầu nhiệm
của Chúa Giêsu, ngày càng đồng hóa các cảm xúc của mình
và trở nên phù hợp với Người. Về vấn đề này, tôi muốn
trích dẫn một suy niệm tuyệt đẹp của Chân phước Bartolo
Longo: “Tương tự như vậy, hai người bạn thường gặp nhau
thì rồi ra cũng trở nên giống nhau trong cách sống, cũng
giống như vậy khi nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu và
với Đức Trinh Nữ, qua việc suy niệm về các Mầu nhiệm
Kinh Mân Côi, (thực hành Mười lăm ngày Thứ Bảy cầu
nguyện với Kinh Mân Côi, ấn bản 27, Pompeii, 1916,
tr. 27: trích dẫn trong Rosarium Virginis Mariae,
n. 15)”.
Kinh Mân Côi là một trường học của chiêm niệm và thinh
lặng. Thoạt nhìn, nó có vẻ giống như một lời cầu nguyện
đầy ắp những lời nói, và do đó khó hòa hợp với sự im
lặng vốn được khuyến khích chính xác cho việc tĩnh tâm
và chiêm niệm. Trong thực tế, sự lặp lại nhịp nhàng này
của Kinh Kính Mừng Ave Maria không làm xáo trộn
sự tĩnh lặng bên trong mà trái lại đòi hỏi và nuôi dưỡng
nó. Cũng giống như cách đối với Thánh Vịnh, khi người ta
cầu nguyện các Giờ kinh Phụng vụ, sự im lặng xuất hiện
qua các từ và các câu, không phải như một khoảng trống,
nhưng như một sự hiện diện của ý nghĩa tối thượng vượt
qua chính lời nói và tiếng nói. Vì vậy, bằng cách đọc
kinh Kính Mừng Ave Maria, chúng ta phải cẩn thận
để tiếng nói của mình không “che lấp” tiếng nói của
Thiên Chúa, Đấng luôn luôn nói qua sự im lặng, như
“tiếng gió nhẹ” (I Các Vua 19:12). Vậy thì việc
quan tâm đến sự im lặng tràn đầy Thiên Chúa này quan
trọng biết bao, cả trong việc đọc kinh cá nhân và cộng
đồng! Ngay cả khi nó được các cộng đoàn đông đảo cầu
nguyện, như ngày nay, và như bạn làm hàng ngày trong
Thánh địa này, cần phải coi kinh Mân Côi như một lời cầu
nguyện chiêm niệm, và điều này không thể xảy ra nếu
không có im lặng nội tâm.
Cha muốn bổ túc thêm một suy tư khác, liên quan đến Lời
Chúa trong kinh Mân Côi, đặc biệt đúng vào thời điểm này
khi Thượng Hội Đồng Giám Mục đang diễn ra tại
Vatican với chủ đề: “Lời Chúa trong đời sống và trong sứ
mệnh của Giáo Hội”. Nếu việc chiêm niệm của người Kitô
hữu không thể thực hiện được mà không có Lời Chúa, thì
Kinh Mân Côi, để trở thành lời cầu nguyện chiêm niệm,
luôn phải phát sinh từ sự thinh lặng của trái tim như
một lời đáp lại Lời, theo khuôn mẫu lời cầu nguyện của
Mẹ Maria. Khi xem xét kỹ hơn, chuỗi mân côi được dệt
hoàn toàn bằng các yếu tố lấy từ Kinh thánh. Trước hết,
có sự thông báo về các mầu nhiệm, tốt hơn là được thực
hiện như ngày nay, bằng những từ được trích từ Kinh
thánh. Làm theo Cha của chúng ta: bằng cách cho
lời cầu nguyện theo hướng “thẳng đứng”, nó mở tâm trí
của người đọc Kinh Mân Côi để họ có thái độ hiếu thảo
đúng đắn, theo lời mời gọi của Chúa: “Khi anh em cầu
nguyện, hãy nói: Lạy Cha ...” (Luca 11, 2). Phần
đầu tiên của Kinh Kính Mừng Ave Maria , cũng
trích từ Phúc Âm, mỗi lần như vậy khiến chúng ta phải
lắng nghe lại những lời Thiên Chúa đã nói với Đức Trinh
Nữ qua Thiên thần, và những lời chúc phúc cho Mẹ từ
người chị họ Isave. Phần thứ hai của Kinh Kính Mừng Ave
Maria vang vọng như một lời đáp từ những người con,
những người đang khẩn cầu Mẹ, không làm gì khác hơn là
bày tỏ sự gắn bó của họ với kế hoạch cứu độ được Đức
Chúa Trời bày tỏ. Vì vậy, tư tưởng về người cầu nguyện
luôn được neo chặt trong Kinh thánh và trong những mầu
nhiệm được trình bày trong đó.” (Diễn từ về Kinh Mân
Côi tại đền thờ Pompei, Chúa nhật ngày 19 tháng 10 năm
2008).
Kinh Mân
Côi và các thánh
Thánh
Bênađô, vị thánh thời danh của Ðức Mẹ có thói quen dùng
lời chào của Tổng Thần Gabrien để chào mừng Ðức Mẹ. Mỗi
lần khi đi qua tượng ảnh Mẹ tại tu viện, Bênađô cúi đầu
và nói: “Ave Maria” - kính chào Maria. Cảm khích về lời
chào và tấm lòng yêu mến đó, một hôm sau khi Bênađô vừa
chào mừng Ðức Mẹ, liền được nghe Ðức Mẹ chào lại: “Ave
Benado” - chào Bênađô. Vì lòng sốt sắng mến yêu luôn
thôi thúc trong lòng thánh nhân, ngài được cho là đã
thêm vào cuối kinh Lạy Nữ Vương những lời này: “Ôi khoan
thay! nhân thay! dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng
trinh”.
Thánh
Anphongsô Giám Mục Tiến Sĩ, sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế
đã viết nhiều về Ðức Mẹ, đặc biệt là bộ sách Vinh Quang
Ðức Mẹ, trong đó thánh nhân đã diễn tả cách rất đầy đủ
về những vinh quang qua 12 nhân đức của Ðức Mẹ.
Thánh
Ludovico Maria Grignon a Monfort đã hô hào lòng sùng
kính và tận hiến cho Ðức Mẹ.
Thánh
Ðaminh, người tiên phong cổ võ việc lần hạt Mân Côi. Nhờ
Ngài sốt sắng rao truyền việc lần hạt, đã chiến thắng
được lạc giáo Albigense tung hoành và gieo rắc bao tai
họa cho Giáo Hội tại nước Pháp thời của Ngài.
Trong khi
rao giảng phép lần hạt Mân Côi tại tỉnh Carcasso, một
hôm có một người đã đả kích Thánh Ðaminh về việc đạo đức
này. Anh ta đã bị quỉ nhập, và Thánh Ðaminh đã cầu
nguyện để trừ quỉ ra khỏi người anh. Trước khi ra khỏi,
chính quỉ dữ đã phải thú nhận và thốt lên những lời
này:
“Hỡi mọi
người, hãy nghe đây: Ðức Trinh Nữ Maria rất thánh là Mẹ
Thiên Chúa. Người có đủ quyền năng gìn giữ mọi người
khỏi lửa hỏa ngục. Ai có lòng sùng kính Người, sẽ thoát
khỏi tay chúng ta. Nếu chẳng có Người, thì nhiều linh
hồn đã phải trầm luân hỏa ngục. Người yêu thương và phù
hộ cho những ai siêng năng lần hạt Mân Côi”.
Nhờ sự hô
hào và lòng sốt sắng đối với Kinh Mân Côi của Thánh Giáo
Hoàng Piô V, Giáo Hội dưới triều đại Ngài đã chiến thắng
đạo quân Hồi Giáo tại vịnh Lépante.
Chân phúc
Bartolo Longo, tông đồ của Kinh Mân Côi, vẫn thường xin
Mẹ là Nữ Vương Mân Côi:
“Hỡi chuỗi Mân Côi đầy ơn phúc của Mẹ Maria, sợi dây
ngọt ngào liên kết chúng con với Thiên Chúa, sợi dây
tình yêu liên kết chúng con với các thiên thần, là tháp
cứu độ chống lại sự tấn công của Địa ngục, bến cảng an
toàn cho thế giới đắm chìm của chúng con, chúng con sẽ
không bao giờ lìa xa Mẹ. Mẹ là niềm an ủi của chúng con
trong giờ chết, là nụ hôn cuối cùng của chúng con khi
cuộc đời sắp tàn. Và lời cuối cùng từ đôi môi của chúng
con sẽ là tên ngọt ngào của Mẹ, hỡi Nữ Vương Mân Côi,
hỡi người mẹ thân yêu nhất, hỡi nơi ẩn náu của những kẻ
tội lỗi, hỡi Đấng bảo trợ tối cao cho những người bị đau
khổ. Chúng con nguyện ước Mẹ được ngợi ca ở khắp mọi
nơi, hôm nay và luôn mãi, dưới đất cũng như trên trời.”
Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã làm gương về lòng yêu mến
Ðức Mẹ qua việc lần hạt Mân Côi. Ngài luôn luôn có tràng
hạt trong người. Lần hạt riêng và lần hạt chung với con
cái bốn phương. Lòng sùng mộ và yêu mến Mẹ Maria đã thôi
thúc Ngài chạy lại bên Mẹ như một trẻ thơ. “Totus tuus”.
Ngày 13
tháng 5 năm 1981, Ngài đã được cứu thoát một cách nhiệm
mầu khi bị ám sát tại quảng trường Thánh Phêrô. Ngài
thâm tín rằng trong biến cố đó, mạng sống Ngài được duy
trì là do bàn tay của Ðức Mẹ. Và Ngài đã bày tỏ lòng
biết ơn Ðức Mẹ bằng cuộc hành hương Fatima một năm sau,
vào ngày 13 tháng 5 năm 1982. Trên mũ triều thiên của
Ðức Mẹ Fatima, giữa những viên kim cương lóng lánh, là
một đầu đạn mà kẻ ám sát đã bắn vào vị Giáo Hoàng, như
dấu chứng hùng hồn về sự săn sóc và yêu thương đặc biệt
của Ðức Mẹ dành cho Ngài. Ta hãy nghe lời của Ngài trong
Tông Huấn Sứ Ðiệp Mục Vụ Các Gia Ðình: “Cha mời gọi tất
cả hãy lần hạt Mân Côi, đường lối thiết yếu nuôi dưỡng
sự tăng trưởng thiêng liêng cho cá nhân và sự thông hiệp
yêu thương cho gia đình” (tr.28).
Ngày 16
tháng 10 năm 2002, bắt đầu năm thứ 25 Giáo Triều của
Ngài, Ngài đã ban hành Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ
Maria (Thư Rosarium Virginis Mariae) đã thêm vào mầu
nhiệm Ánh Sáng tỏa chiếu qua Chúa Giêsu. Tông Thư là một
tài liệu rất đặc biệt hô hào mọi người hãy yêu mến và
sốt sắng lần hạt Mân Côi. Ngay trong phần nhập đề, Ngài
đã viết:
“Kinh Mân
Côi của Trinh Nữ Maria, một kinh đã từ từ thành hình
trong thiên niên kỷ thứ hai theo sự hướng dẫn của Thần
Linh Thiên Chúa, là một kinh được rất nhiều vị thánh mến
chuộng cũng như được Giáo Quyền khuyến khích. Tuy đơn
giản, nhưng sâu xa, kinh nguyện này vào đầu thiên niên
kỷ thứ ba đây, vẫn là một kinh nguyện có tầm vóc quan
trọng trong việc mang lại một mùa gặt thánh đức”.
Cũng trong
phần mở đầu của Tông Thư, Ngài viết tiếp:
“Mặc dù rõ
ràng mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất
là một kinh nguyện có trọng tâm là Chúa Kitô. Qua những
yếu tố bình dị của nó, Kinh Mân Côi chất chứa tất cả
những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm. Có thể nói
rằng Kinh Mân Côi là một tổng hợp của Phúc Âm”.
Kinh Nhật
Tụng người Kitô hữu
Như các
linh mục và các thầy phó tế đã lãnh chức thánh, như các
tu sĩ thuộc các dòng tu, thường ngày đọc kinh Nhật Tụng
để đại diện cho Giáo Hội dâng lời ca ngợi Thiên Chúa,
người tín hữu giáo dân mỗi ngày cũng dùng lời kinh
nguyện của mình ca tụng Thiên Chúa. Kinh nguyện đó là
Kinh Mân Côi. Là Lectio Divina của các Kitô hữu.
Trong tinh
thần kinh nguyện, Kinh Mân Côi trở thành Kinh Nhật Tụng
của người tín hữu. Trong bộ kinh này, ta có dịp đọc lên
những lời chúc tụng thánh danh Thiên Chúa, cầu xin một
cách đẹp lòng Ngài trong Kinh Lạy Cha - kinh nguyện duy
nhất mà Chúa Cứu Thế đã dậy khi còn tại thế. Chúc tụng
Mẹ Maria thánh đức bằng những lời Tổng Thần Gabrien,
Thiên sứ của Thiên Chúa đã chào mừng Ðức Mẹ. Những lời
ngợi khen của Thánh Isave, và lời cầu xin của ta dâng
lên Mẹ với ý thức về sự yếu hèn của chính mình. Sau cùng
là lời ca ngợi vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa từ muôn
thuở và cho đến muôn đời.
Tóm lại,
khi suy nguyện chuỗi Mân Côi với ý nghĩa của Kinh Lạy
Cha, Kinh Kính Mừng, và Kinh Sáng Danh, ta không thể
không cảm thấy ngợp trời ánh sáng, vinh quang và vui
mừng vì được chúc tụng Thiên Chúa chí tôn, đầy tình
thương. Ca ngợi Mẹ Maria, người Mẹ diễm phúc, luôn
thương xót và cầu bầu cho chúng ta. Trên tất cả, tình
thương và phúc lộc đó qui về vinh quang một Thiên Chúa
là Cha, và cho phần rỗi của con cái Ngài.
Một kinh
nguyện như thế, chắc chắn không còn bộ kinh nào đẹp đẽ
hơn, xứng đáng hơn để ta dâng lên Thiên Chúa. Do đó,
Kinh Mân Côi được coi là nhật tụng thần lương (Lectio
Divina) của mọi Kitô hữu. Những tâm hồn đạo đức, những
thánh nhân kim cổ trong lịch sử Giáo Hội đều có lòng yêu
mến Ðức Mẹ, hoặc sùng mộ những Mầu Nhiệm ẩn chứa trong
việc lần hạt Mân Côi.
Cũng như
Thánh trẻ Phanxicô, nếu ta muốn đạt tới đích của đời
sống, muốn chiếm hữu được vĩnh cửu, thì chắc chắn phải
siêng năng lần hạt. Lần hạt mỗi ngày. Lần hạt một mình.
Lần hạt chung với nhau trong gia đình. Khi một mình trên
xe bus. Một mình trên xe từ nhà tới sở, và từ sở về nhà.
Lúc rảnh rỗi hay trên giường bệnh. Khi gặp những thử
thách, đau khổ mà không biết than thở với ai. Nhờ suy
ngắm những mầu nhiệm Mân Côi, ta sẽ biết hy sinh, khiêm
nhường, nhẫn nại như Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ta sẽ hiểu
Thiên Chúa muốn mình sống như thế nào.
“Hãy cầu
nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” (Mt 26:41). Lời Ðức Kitô
nói xưa không có luật trừ cho bất cứ ai. Nó không phải
là một lời có tính cách cảnh giác hay đề phòng, nhưng là
một mệnh lệnh, một điều kiện. Lời Ngài là lời hằng sống,
như thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Chúa có lời ban sự sống
đời đời” (Jn 6:69). Lời đó nhắc nhở ta phải luôn tỉnh
thức cầu nguyện.
Ðời sống
của con người trên dương thế không phải là một chuỗi
ngày dài hạnh phúc, vui tươi, phấn khởi và thơ mộng như
những giấc mơ thần tiên được thêu dệt do trí tưởng tượng
trong các tiểu thuyết. Những câu chuyện như thế chỉ có
tác dụng làm quên đi thực tế của cuộc đời, hơn là giúp
ta biết chấp nhận, thánh hóa, và thăng tiến cuộc đời như
Ðức Kitô, như Mẹ Maria, như các thánh nhân đã sống, và
đã thánh hóa.
Nếu được
trình bày một cách trung thực, đời người phải là một tập
hợp giữa vui và buồn, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa
yêu thương và ghen ghét, giữa bạn hữu và thù nghịch,
giữa lương thiện và gian ác. Một cuộc sống mà không ai
có thể nói mình hoàn toàn hạnh phúc, hoặc hoàn toàn bất
hạnh. Một cuộc sống mà trong đó mọi người phải phấn đấu,
chấp nhận, và vươn cao giữa những thử thách, những cám
dỗ, và yếu đuối. Trong cuộc sống này, người Kitô hữu
không thể không tìm gặp Thiên Chúa, không thể không cậy
trông Ngài, và không thể không xin Ngài nâng đỡ. Bằng
cách nào? Bằng việc sốt sắng suy ngắm và sống các mầu
nhiệm Mân Côi.
Theo Ðức
Giáo Hoàng Piô XII, thì Kinh Mân Côi là một bản tóm lược
toàn bộ Tin Mừng. Nhờ suy ngắm những mầu nhiệm này, Ðức
Tin của người Kitô hữu “được nẩy nở thêm” như Ðức Giáo
Hoàng Piô XI đã đề cập trong Thông Ðiệp In Crescentibus
Malis (Trước Sự Dữ Gia Tăng), và Thánh Hoàng Phaolô VI
nhắc lại trong Thông Ðiệp Hòa Bình, ban hành ngày 15
tháng 9 năm 1966.
Lần hạt đối
với Phanxicô là con đường dẫn lên cõi phúc. Ðối với ta
cũng thế, lần hạt sẽ giúp hiểu hơn về Ðức Trinh Nữ
Maria, và yêu mến Mẹ hơn. Nhờ tình mến này, Mẹ đưa ta
tiến gần tới Chúa Giêsu Con Chí Thánh của Mẹ.
Lần hạt Mân
Côi, theo linh mục Joanquim Maria Alonso, CMS, nhà biên
khảo thời danh về biến cố Fatima, còn là việc chu toàn
một trong ba điều kiện của Ðức Mẹ, đó là: Cải thiện đời
sống, tôn sùng Trái Tim Mẹ, và siêng năng lần hạt.
Linh mục
Alonso còn quả quyết rằng Thánh Ý Thiên Chúa muốn dùng
Ðức Trinh Nữ Maria để tỏ lòng khoan nhân và công trình
Cứu Chuộc vô giá của Ðức Kitô cho nhân loại.
Việc cứu
rỗi nhân loại dĩ nhiên thuộc về Ðức Kitô, nhưng do lòng
nhân lành vô biên của Ngài, Thiên Chúa muốn ban cho Mẹ
Maria quyền ban phát ơn đó cho nhân loại. Giáo huấn của
Giáo Hội về vai trò trung gian của Ðức Trinh Nữ Maria,
đã được Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII quảng diễn trong Thông
Ðiệp Jucunda Semper ban hành ngày 8 tháng 9 năm 1894 như
sau:
“Thiên
Chúa, theo sự quan phòng rất nhân lành của Ngài đã ban
cho nhân loại vị Nữ Trung Gian này, và đã ấn định rằng
tất cả mọi phúc lộc phải qua tay Maria mới đến với chúng
ta”.
______________
Tài liệu:
[1] Trần Mỹ
Duyệt. “Sống Đạo Giữa Đời”, Tủ Sách Vào Đời,
2004. Chương 10, tr.119-129.
[2] Phêrô
Phạm Văn Trung. Kinh Mân Côi và Các Đức Giáo Hoàng. Tin
Vui.org. Thứ tư - 07/10/2020.
Tham khảo
từ:
https://udayton.edu/imri/mary/o/october-month-of-the-rosary.php
http://www.vatican.va/content/benedict-xvi/fr/speeches/2008/october/documents/
[3] ibid
[4] Mười
một thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII về Kinh Mân
Côi:
Supremi Apostolatus Officio , Thông điệp về việc
tôn sùng Kinh Mân Côi (09/01/1883)
Superiore Anno , Thông điệp về việc đọc kinh Mân
Côi (30/08/1884)
Viè En Ben Noto , Thông điệp về Kinh Mân Côi và
Đời sống Công cộng (20/09/1887)
Octobri Mense , Thông điệp về Kinh Mân Côi
(22/09/1891)
Magnae Dei Matris , Thông điệp về Kinh Mân Côi
(09/08/1892)
Laetitiae, Thông điệp Khen ngợi lòng sùng kính
Kinh Mân Côi (09/08/1893)
Iucunda Semper Expectatione , Thông điệp về Kinh
Mân Côi (09/08/1894)
Aduitricem , Thông điệp về Kinh Mân Côi
(09/05/1895)
Fidentem Piumque Animum , Thông điệp về Kinh Mân
Côi (20/09/1896)
Augustissimae Virginis Mariae , Thông điệp về sự
vĩnh cửu của Đức Mẹ Mân Côi (09/12/1897)
Diuturni Temporis, Thông điệp về Kinh Mân Côi
(09/05/1898) |